Thực đơn
Xe_tăng_Kliment_Voroshilov Lược sử phát triểnSau khi dự án thiết kế tăng đa nòng T-35 thất bại, quân đội Liên Xô bắt đầu tìm đến một giải pháp khác để thay thế. T-35 được đánh giá là một loại tăng với hỏa lực mạnh, bọc giáp kỹ nhưng động cơ tồi tệ và tính linh động gần như không có. Cuộc nội chiến Tây Ban Nha cho thấy tăng hạng nặng đóng một vai trò khá quan trọng và nó vẫn ảnh hưởng đến việc thiết kế tăng giai đoạn trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Một vài bản vẽ thiết kế được hoàn thành, tất cả đều là các loại tăng được bọc giáp nặng, sử dụng hệ thống treo thanh xoắn, bề mặt xích rộng và là các dạng thiết kế hàn dính nhau. Có một bản thiết kế có tên là SMK thiết kế gần giống như T-35 nhưng giảm 5 tháp pháo xuống 2 tháp pháo và vũ khí vẫn giữ nguyên là pháo 76.2 mm/45 mm. Khi SMK được gửi đến, Bộ Quốc phòng Liên Xô quyết định là chỉ nên có một tháp pháo nhưng được bọc giáp nặng hơn. Một bản thiết kế nữa có tên là KV, phần thân được thiết kế nhỏ hơn và chỉ có một tháp pháo khiến cho việc gia cố giáp ở mặt trước và tháp pháo được dày hơn mà vẫn giữ được trọng lượng nhất định-không quá nặng.
Một chiếc KV-2 bị bỏ lại, tháng 6-năm 1941Khi Quân đội Liên Xô bắt đầu cuộc chiến tranh mùa đông với quân Phần Lan, cả ba mẫu bao gồm: SMK-KV-T-100 được gửi đến thực tập ở điều kiện chiến tranh. Lớp giáp bọc nặng của KV đã thể hiện uy lực của nó trước các loại pháo chống tăng của quân đội Phần Lan khiến nó trở nên hữu dụng hơn các bản thiết kế còn lại. Có hai phiên bản KV được đem ra sản xuất đó là KV-1-với tên gọi chính thức là "Xe tăng hạng nặng KV-1" (trang bị pháo 76 mm) và KV-2-với tên gọi chính thức là "Xe tăng hạng nặng KV-2" (trang bị lựu pháo 152 mm).
Những ưu điểm của KV bao gồm: lớp giáp cực dày của nó không thể nào bị xuyên thủng bởi đa phần các loại pháo chống tăng thời bấy giờ[1] - trừ khi ở những điểm yếu và ở khoảng cách quá gần, hỏa lực mạnh và sự di chuyển êm của xích trên mặt đất. Nhưng dù sao nó cũng có một số nhược điểm quan trọng: hơi khó để lái, hệ truyền động hoạt động không êm, hệ thống công thái học hoạt động yếu và hầu như không có gàu/lồng tháp pháo[2]. Thêm nữa là trọng lượng 45 tấn là quá nặng so với KV-1. Nó hoạt động cũng như tác chiến không được linh động cho lắm mặc dù hoạt động tối đa công suất của động cơ và còn không thể vượt qua đa số các cây cầu như các loại tăng hạng trung có thể làm được một cách dễ dàng[3].
KV là loại tăng nặng nhất tính đến thời điểm đó và về sau thì Đức cũng có thiết kế một số loại tăng hạng nặng khác còn lớn hơn như Tiger I. KV không bao giờ được trang bị hệ thống ống lặn để vượt qua sông bằng phần dưới, thế nên nó phải đi qua các loại cầu có đủ khả năng cho nó đi qua. Một vài cải tiến về sau có cố tìm cách nâng cấp động cơ và thêm giáp nhưng KV vẫn không thể đạt được đến tốc độ của các loại xe tăng hạng trung và càng ngày càng gặp nhiều vấn đề khi di chuyển ở các địa hình khác nhau.
Vào năm 1942, người Đức bắt đầu thiết kế và nâng cấp ra các loại pháo 75 mm và 88 mm nên giáp của KV không còn sở hữu danh hiệu bất khả chiến bại nữa. Ngay cả đối với các loại máy bay như Henschel Hs 129 trang bị pháo tự động MK 101 cũng có thể xuyên thủng giáp sườn, giáp tháp pháo và đỉnh của KV; điều này chứng tỏ KV cần phải gia cố thêm về lớp giáp.
KV cũng chỉ mang được pháo chính 76.2 mm, trong khi đó tăng T-34 với trọng lượng nhẹ hơn, tốc độ nhanh hơn và chi phí sản xuất rẻ hơn cũng có thể mang được mà còn thực hiện điều đó rất tốt. Điều này bắt đầu ảnh hưởng đến uy tín của KV khi tác chiến cũng như sản xuất. Vào năm 1943, Đức Quốc xã bắt đầu cho tăng hạng nặng Tiger I tham chiến, với sức mạnh của pháo 88 mm và giáp dày, KV-1 không còn là đối thủ của Tiger-I nữa - một cuộc thử nghiệm chiếc Tiger bắt được gần Leningrad đã cho thấy pháo chính của KV không thể nào xuyên thủng được giáp của Tiger-I[4]. Ngoài ra nó còn rất khó để sản xuất và đắt hơn T-34 rất nhiều. Các nhược điểm trên đã nhanh chóng đặt ra cho KV nhiều thách thức.
Nhưng dù sao, vì thành tích hạ gục được nhiều tăng Đức nên KV vẫn được giữ lại trong đội hình tăng của Liên Xô và vẫn tiếp tục được sản xuất. Trong một cuộc nâng cấp, KV được cho sử dụng động cơ 600 hp V-2K-một phiên bản sửa chữa của động cơ tăng T-34 V-2-chạy bằng diesel) và vẫn được trang bị pháo F-34 - trong khi đó T-34 cũng được cho sử dụng cùng loại pháo này.
KV-1 dòng năm 1942, trưng bày tại bảo tàng tăng Phần Lan, Parola.Khi việc sản xuất bắt đầu trở nên khó khăn hơn do Đức Quốc xã đẩy mạnh các cuộc tiến công bằng máy bay và xe tăng nên các nhà máy sản xuất phải chuyển lên núi Ural, việc sản xuất tăng KV-2 bị bỏ dỡ. Khác với những lời ca ngợi trên sách báo, tăng KV-2 thực ra gặp một số vấn đề nặng liên quan đến phễu chứa dầu. Nó có tính linh động rất kém, khiến nó trở nên lạc hậu dần trong một chiến trường đầy tính cấp tốc như mặt trận phía Đông. Phần tháp pháo có trọng lượng khá nặng, rất khó để quay sang hai bên trong điều kiện địa hình ghồ ghề và chi phí sản xuất rất đắt. Chỉ có khoảng 250 chiếc KV-2 được sản xuất, tất cả đều trong những năm 1940-1941, khiến nó nằm trong danh sách những loại tăng hiếm được sản xuất nhất.
Để tiếp tục cuộc chiến tranh bên cạnh tăng T-34, KV-1 tiếp tục được cải tiến phần giáp để trở nên hữu dụng hơn khi đối đầu với các vũ khí chống tăng của quân đội Đức. Bản KV-1 được đặt tên là "KV-1 phiên bản năm 1942" (người Đức đặt tên cho phiên bản này là "KV-1C"). Phiên bản KV-1C có giáp bọc rất nặng và dày nhưng thiếu đi một số sửa chữa về phần động cơ. Kíp chiến đấu tăng KV-1C than phiền rằng mặc dù được bảo vệ rất tốt nhưng tăng của họ vẫn thiếu đi sự linh động và uy lực trên chiến trường.
Để cải thiện những lời phàn nàn và tính linh động của KV-1, phiên bản KV-1S (tên tiếng Nga: KB-1C) được tung ra chiến trường, với lớp giáp mỏng và nhẹ hơn, phần tháp pháo thấp xuống nhằm cải thiện tốc độ di chuyển. Quan trọng hơn, KV-1S có cu-pôn chỉ huy được bao bọc bởi bộ phóng đại tầm nhìn, chiếc tăng đầu tiên được trang bị hệ thống này. Nhưng khi KV-1S ra đời với lớp giáp mỏng và vũ khí cũng được đánh giá là khá tầm thường đã có một câu hỏi được đặt ra là tại sao các bản cải tiến của KV-1 vẫn được sản xuất chiếm bớt thời gian trong khi đó tăng T-34 cũng có thể làm được y hệt và còn rẻ hơn rất nhiều. Vì thế nên dự án sản xuất tăng hạng nặng của quân đội Liên Xô bị cho dừng hoạt động vào giữa năm 1943.
Vào mùa hè năm 1943, quân Đức bắt đầu cho lộ diện loại chiến xa hạng trung với sức mạnh rất cao Panther ra chiến trường, sự đe dọa đối với các loại xe tăng Xô-Viết bắt đầu lấn át khi vắng bóng các loại tăng hạng nặng. Lực lượng thiết giáp quân đội Liên Xô cần những loại tăng có giáp dày và pháo mạnh hơn để đối đầu lại với số tăng Panther và Tiger-I đang tăng lên.
Một phiên bản được thiết kế tạm thời KV-85 hoặc Objekt 239. Phiên bản này thật ra là một chiếc KV-1S được lắp tháp pháo mới của tăng IS và được lắp pháo 85 mm D-5T-cũng được lắp trên PTHCT SU-85 và tăng T-34-85. Chỉ có khoảng 148 chiếc KV-85 được sản xuất trước khi dự án sản xuất KV bị cho dừng lại. KV-85 được cho sản xuất vào mùa thu và mùa đông những năm 1943-1944. Chúng được gửi ra mặt trận vào tháng 9 năm 1943. Việc sản xuất tăng KV-85 bị dừng lại vào mùa xuân năm 1944 khi xe tăng IS-2 bắt đầu đi vào sản xuất với số lượng lớn.
Một dự án thiết kế tăng mới được dựa trên tăng KV-13 được đưa vào sản xuất vào cuối năm 1943. Bởi vì tăng KV đã bị dừng sản xuất nên một sê-ri tăng hạng nặng mới có tên IS bắt đầu xuất hiện. Dự án KV-13 được đặt tên lại thành tăng hạng nặng IS-1 (hoặc IS-85 hay dự án Object 237).
Sau khi thử nghiệm cả hai loại pháo chính 100 mm hoặc 122 mm, cuối cùng pháo chính D-25T 122 mm được lựa chọn làm vũ khí cho tăng IS, các ưu điểm của nó phải được kể đến như sức nổ của đạn lớn và sức xuyên giáp cao. Nhưng nhược điểm của pháo bao gồm tốc độ bắn thấp và số đạn mang được không nhiều. Trong khi pháo 122mm D-25T có tốc độ bắn không nhanh bằng pháo 7.5 cm hoặc pháo 8.8 cm của người Đức nhưng sức xuyên của đạn pháo AP có thể xuyên thủng giáp mặt trước của cả Tiger I và Panther; đạn nổ mạnh (HE) của pháo 122 mm có thể thổi tung phần hầm trước bao gồm hệ thống đĩa và phần thân trước của bất cứ loại xe tăng hay pháo tự hành nặng nhất từ phe Đức Quốc xã. Dự án tăng hạng nặng mới mang tên IS-122 thay thế cho dự án tăng hạng nặng IS-85 và được đưa ra sản xuất trên diện rộng. Các phiên bản T-34-85 và SU-85 được cho sử dụng pháo chính 85 mm thay cho pháo 76.2 mm.
Một vài chiếc KV còn sót lại trong quá trình sản xuất được sử dụng cho đến hết cuộc chiến nhưng đa phần đều bị phá hủy hoặc bị hư hại không sửa chữa được. Trung đoàn cận vệ hạng nặng số 260 được cho phòng thủ ở mặt trận Leningrad, được giao cho một vài chiếc KV-1 (đến tận mùa hè năm 1944) để bảo vệ thành phố trước khi được trang bị lại bằng xe tăng IS-2. Một trung đoàn tăng KV được thấy hoạt động ở Manchuria vào tháng 8-năm 1945; một vài chiếc KV-85 được thấy hoạt động ở Crimea vào mùa hè năm 1944.
Quân đội Phần Lan sở hữu hai chiếc KV (được đặt biệt danh là "Klimi"), trong hai chiếc KV có một chiếc mẫu 1940 và một chiếc mẫu 1941. Một chiếc KV-2 bị quân đội Đức bắt được vào năm 1945 trong khi chiếc KV-2 đang tác chiến với quân đội Mỹ ở Ruhr.
Lưu ý: quân đội Liên Xô không bao giờ tổ chức sản xuất các mẫu KV-1 trong suốt cuộc chiến, đã từng có các mẫu KV-1 năm 1939 (hoặc:M1939, tên Tiếng Nga: Obr. 1939) được cho tham chiến. Nhưng dù sao các mẫu này không có cải tiến gì lớn và chẳng hơn gì bản cũ. Tên kỹ thuật được đặt bởi quân đội Đức (ví dụ như "KV-1A").
KV-1 đời 1939T-35 | T-100 | SMK | KV-1 M1940 | KV-1 M1941 | KV-1 M1942 | KV-1S M1942 | KV-85 M1943 | IS-2 M1945 | IS-3[6] M1945 | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Kíp chiến đấu | 11 | 7 | 7 | 5 | 5 | 5 | 5 | 4 | 4 | 4 |
Trọng lượng | 45 tấn | 58 tấn | 55 tấn | 43 tấn | 45 tấn | 47 tấn | 42.5 tấn | 46 tấn | 46 tấn | 46.5 tấn |
Vũ khí chính | 76.2 mm M. 27/32 | 76.2 mm L-11 | 76.2 mm L-11 | 76.2 mm F-32 | 76.2 mm F-34 | 76.2 mm ZiS-5 | 76.2 mm ZiS-5 | 85 mm D-5T | 122 mm D-25T | 122 mm D-25T |
Lượng đạn mang được | 100 viên | – | – | 111 viên | 111 viên | 114 viên | 114 viên | 70 viên | 28 viên | 28 viên |
Vũ khí phụ | 2×45 mm, 5×7.62 mm | 45 mm | 45 mm | 2× súng máy hạng nhẹ DT | 4×DT | 4×DT | 4×DT | 3×DT | 2×DT, DShK | 2×DT, DShK |
Động cơ | 500 hp M-17M(chạy bằng xăng) | 500 hp | 850 hp AM-34 | 600 hp V-2K(động cơ diesel) | 600 hp V-2 | 600 hp V-2 | 600 hp V-2 | 600 hp V-2 | 600 hp V-2 | 600 hp V-2-IS |
Dung tích | 910 l | – | – | 600 l | 600 l | 600 l | 975 l | 975 l | 820 l | 520 + 270 l |
Vận tốc di chuyển trên đường | 30 km/h | 35 km/h | 36 km/h | 35 km/h | 35 km/h | 28 km/h | 45 km/h | 40 km/h | 37 km/h | 37 km/h |
Tầm hoạt động(đi trên đường) | 150 km | – | 150 km | 335 km | 335 km | 250 km | 250 km | 250 km | 240 km | 150 (225) km |
Lớp giáp bọc | 11–30 mm | 20–70 mm | 20–60 mm | 25–75 mm | 30–90 mm | 20–130 mm | 30–82 mm | 30–160 mm | 30–200 mm | 20–310 mm |
Thực đơn
Xe_tăng_Kliment_Voroshilov Lược sử phát triểnLiên quan
Xe tăng Xe tăng tại Việt Nam Xe tăng Iosif Stalin Xe tăng Centurion Xe tăng Kliment Voroshilov Xe tăng BT Xe tăng Type 96 Xe tăng Type 63 Xe tăng Type 99 Xe tăng hạng nhẹTài liệu tham khảo
WikiPedia: Xe_tăng_Kliment_Voroshilov http://www.achtungpanzer.com/the-new-generation-of... http://books.google.com/books?id=GlVoAnV5u-0C&pg=P... http://books.google.com/books?id=ZjEIa4hcqE4C&pg=P... http://www.onwar.com/tanks/ussr/data/is3.htm http://www.onwar.com/tanks/ussr/fkv1em40.htm http://www.onwar.com/tanks/ussr/fkv1m39.htm http://www.onwar.com/tanks/ussr/fkv1m41.htm http://www.onwar.com/tanks/ussr/fkv1s.htm http://www.onwar.com/tanks/ussr/fkv2m40.htm http://www.onwar.com/tanks/ussr/fkv85.htm